Tính bền vững so với hôn nhân thông thường Hôn_nhân_đồng_giới

Trong một nghiên cứu năm 2014, Đại học Mở của Anh đã khảo sát 5.000 người để tìm hiểu về tình hình sống chung của các cặp đôi hiện đại và phương thức giữ gìn mối quan hệ. Theo đó, các cặp đôi đồng tính hầu hết đều có mối quan hệ tình cảm hạnh phúc hơn các cặp đôi dị tính. Tuy nhiên, họ lại ít khi bày tỏ những cử chỉ thân mật ở nơi công cộng và ngại công khai mối quan hệ. Tiến sĩ Jacqui Gibb cho biết: "Các cặp đôi đồng tính tham gia luôn có suy nghĩ tích cực và hạnh phúc với mối quan hệ của họ".[104][105][106][107]

Tuy nhiên, về bạo lực gia đình, khảo sát được tiến hành bởi Bộ Tư pháp Mỹ xác nhận rằng người đồng tính và các mối quan hệ đồng tính nữ có một tỷ lệ lớn hơn của bạo lực gia đình so với các mối quan hệ khác giới. Trong cuốn sách vềbạo lực gia đình trong những cặp đồng tính nam, Island và Letellier khẳng định rằng "bạo lực gia đình trong số những người đàn ông đồng tính cao gần gấp đôi so với nam giới dị tính." Khảo sát của Trung tâm quốc gia chống bạo lưc phụ nữ, được tài trợ bởi Viện Tư pháp, cho thấy rằng "chung sống đồng tính có mức bạo lực với bạn tình cao hơn đáng kể so với chung sống khác giới. 39% số cuộc chung sống đồng tính nữ đã xảy ra hãm hiếp, hành hung thể chất, so với 21,7% chung sống khác giới. Đối với đàn ông, các con số tương đương là 23,1% và 7,4%"[108]

Về tính bền vững, Khảo sát năm 2004 ở Na UyThụy Điển đối với các cặp đồng tính đã đăng ký kết hợp dân sự cho thấy: các cặp đồng tính nam có tỷ lệ ly hôn cao hơn 50%, với đồng tính nữ cao hơn 167% so với các cặp vợ chồng nam-nữ thông thường.[109] Đại học Chicago và nhà xã hội học Edward Laumann lập luận rằng "cư dân đồng tính điển hình trong thành phố dành hầu hết cuộc sống trong các mối quan hệ tình cảm mang tính "giao dịch", hoặc chỉ duy trì được quan hệ ngắn hơn sáu tháng".[110]

Một nghiên cứu về đồng tính namHà Lan được công bố trong tạp chí AIDS phát hiện ra rằng "thời gian có quan hệ ổn định" với mỗi bạn tình chỉ là 1 năm rưỡi, và mỗi đồng tính nam có trung bình 8 đối tác tình dục mỗi năm[111] Điều tra năm 2004 ở Mỹ về lối sống của 7862 người đồng tính cho thấy: chỉ có 15% đã gắn bó với bạn tình đồng giới được 12 năm hoặc lâu hơn, chỉ có 5% kéo dài hơn 20 năm. Trong khi đó, Trung tâm Sức khỏe Quốc gia năm 2001 thống kê rằng 66% các cuộc hôn nhân nam-nữ đã kéo dài được 10 năm hoặc lâu hơn, 50% kéo dài được 20 năm hoặc lâu hơn. Điều này cho thấy rằng chỉ một số ít mối quan hệ đồng tính đạt được tuổi thọ lâu dài về hôn nhân[108].

Về mức độ chung thủy, nghiên cứu của Sondra E. SolomonEsther D. Rothblum cho biết: khi được hỏi về thái độ đối với việc quan hệ tình dục với người khác ngoài bạn tình, 40,3% các nam đồng tính (đã đăng ký kết hợp dân sự) đã từng thảo luận và chấp nhận điều đó trong vài hoàn cảnh, so với chỉ 3,5% ở nam giới đã kết hôn với nữ; số nam đồng tính phản đối là 50,4% so với 78,6% ở nam giới kết hôn với nữ. Có 58,3% các cặp nam đồng tính (đã đăng ký kết hợp dân sự) có quan hệ tình dục ngoài bạn tình, so với 15,2% ở nam kết hôn với nữ[112]. Theo Báo cáo Mendola, chỉ 26% người đồng tính tin rằng chung thủy là yếu tố quan trọng nhất trong một cuộc hôn nhân[108].

Các tổ chức ủng hộ đồng tính vẫn tuyên truyền rằng tình yêu đồng tính không có gì khác biệt so với tình yêu nam-nữ, tuy nhiên thực tế lại rất khác. Chính bản thân "văn hóa đồng tính" luôn thôi thúc người đồng tính liên tục tìm kiếm các bạn tình mới, thay vì tôn trọng chế độ một vợ một chồng như các cặp dị tính.[113] Andrew Sullivan, một tác giả nổi tiếng về đồng tính, cho biết các cặp đồng tính có các tiêu chuẩn đạo đức rất "khác biệt" so với xã hội. Một trong số đó là "sự tồn tại các bạn tình ngoài hôn nhân", họ luôn muốn tìm nhiều bạn tình riêng dù vẫn đang chung sống với nhau. Các cặp đôi đồng tính không xem đó là hành vi ngoại tình mà lại coi đó là điều cần thiết trong lối sống của họ. Một khảo sát của Tạp chí Nghiên cứu Giới tính cho thấy: chỉ có 2,7% số người đồng tính lớn tuổi là chung thủy với duy nhất 1 bạn tình trong suốt cuộc đời của họ, so với tỷ lệ trên 80% ở những người bình thường.[114]

Nhà nghiên cứu Brad Hayton cung cấp cái nhìn sâu sắc thái độ của nhiều người đồng tính đối với cam kết trong hôn nhân:

Người đồng tính có niềm tin rằng mối quan hệ hôn nhân chỉ là tạm thời và chủ yếu là vì bản năng tình dục. Quan hệ tình dục giữa họ chủ yếu vì niềm vui chứ không phải vì sự sinh sản. Họ tin rằng nguyên tắc một vợ một chồng trong hôn nhân không phải là tiêu chuẩn và cũng không cần được khuyến khích.[115]

Cặp đồng giới nuôi dạy con

Người LGBT làm cha mẹ nói chung và nhận con nuôi nói riêng là vấn đề gây tranh cãi ở nhiều nước phương Tây, ngay cả ở những nước công nhận hôn nhân đồng tính, bởi việc công nhận hôn nhân đồng tính đồng nghĩa với việc công nhận việc nhận con nuôi của các cặp đồng tính. Những lo ngại chủ yếu là về tác động của kiểu hôn nhân này đối với tâm lý trẻ em (nhất là những trẻ lớn lên trong một gia đình đồng tính) khi thiếu vắng một người cha/mẹ theo đúng nghĩa, đồng thời với đó là sự sụp đổ các quan niệm về giá trị của hôn nhân trong cách nghĩ của các thế hệ sau.[116]

Ủng hộ

Có một số nghiên cứu khoa học cho rằng cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam có khả năng như các bậc cha mẹ khác giới, và con cái của họ phát triển tâm lý lành mạnh như con cái nuôi bởi cha mẹ dị tính[117][118][119]. Các nghiên cứu xã hội học này chỉ ra rằng các yếu tố tài chính, tâm lý và thể chất hạnh phúc của cha mẹ được tăng cường bởi hôn nhân và rằng trẻ em được hưởng lợi từ việc nuôi dưỡng bởi cha mẹ khi hôn nhân được công nhận về mặt pháp lý.[20][118][119][120], mặc dù trên thực tế sự phân biệt pháp lý và bất bình đẳng vẫn là thách thức đáng kể đối với các gia đình đồng tính.[117] Các hiệp hội chủ yếu của các chuyên gia sức khỏe tâm thần ở Mỹ, Canada, và Australia cho biết chưa xác định được nghiên cứu thực nghiệm nào đáng tin cậy cho kết quả khác.[20][37][118][121][122] Kết quả các thống kê cho thấy việc chăm sóc trẻ em và những công việc khác trong các gia đình đồng tính được phân chia đồng đều hơn giữa hai người hơn[123], và rằng không có sự khác biệt về lợi ích và sở thích của trẻ em có cha mẹ đồng tính so với trẻ em có cha mẹ dị tính.[124]

Các nghiên cứu và phân tích bao gồm các phân tích Bridget Fitzgerald năm 1999 về đồng tính và cha mẹ đồng tính nữ được công bố trong Tạp chí Hôn nhân và Gia đình đã chỉ ra rằng "Các nghiên cứu hiện có nói chung kết luận rằng: khuynh hướng tình dục của cha mẹ không phải là một yếu tố dự báo hiệu quả và quan trọng nhất tới sự phát triển thành công ở trẻ em" [125].

Từ những năm 1970, có những nghiên cứu cho rằng phương pháp và quá trình phát triển của gia đình (chẳng hạn như "chất lượng" của cha mẹ, trạng thái tâm lý xã hội hạnh phúc của cha mẹ, chất lượng và sự hài lòng với các mối quan hệ trong gia đình, mức độ hợp tác và hòa hợp giữa cha mẹ) góp phần vào việc tạo nên hạnh phúc của trẻ em hơn là cấu trúc gia đình (chẳng hạn như tình trạng số lượng, giới tính hay khuynh hướng tình dục của cha mẹ).[117][120].

Ảnh hưởng tiêu cực tới trẻ em

Một nghiên cứu mới vào năm 2012 của Mark Regnerus, giáo sư tại Đại học Texas được đăng trên Tạp chí nghiên cứu xã hội Hoa Kỳ đã cung cấp thêm nhiều thông tin về vấn đề này. Nghiên cứu khảo sát 15.000 thanh niên, khảo sát kỹ 3.000 thanh niên trong đó 175 được nuôi lớn bởi cặp đồng tính nữ và 73 bởi cặp đồng tính nam. Kết quả cho thấy: trong ngắn hạn, các cặp đồng tính có thể nuôi con tốt như vợ chồng thông thường; nhưng về dài hạn, sự khiếm khuyết về giới tính (thiếu vắng cha hoặc mẹ để nuôi dạy đứa trẻ) là không thể khắc phục được, và con nuôi của họ khi bước vào tuổi thành niên sẽ gặp phải nhiều vấn đề hơn hẳn so với con cái của những gia đình thông thường, cụ thể[126]:

Vấn đề gặp phảiCon nuôi đồng tính nữCon nuôi đồng tính namGia đình thông thường
Thất nghiệp28%20%15%
Có ý định tự tử12%24%9%
Phải điều trị tâm lý gần đây19%19%9%
Có quan hệ đồng tính7%12%2%
Bị cưỡng ép quan hệ tình dục31%25%11%

Nghiên cứu trên của Mark Regnerus nhận được sự ủng hộ của Trường Cao đẳng nhi khoa Hoa Kỳ, một tổ chức quốc gia của các bác sĩ nhi khoa và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và giáo dục dành cho trẻ em. Hội đồng Nghiên cứu gia đình Hoa Kỳ đã có bài phân tích ủng hộ nghiên cứu và cho biết: nhờ mẫu thống kê lớn nên nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng cho biết về tình trạng của trẻ em trong gia đình đồng tính về dài hạn, cũng như bản chất "bất ổn định" của cặp đồng tính. Nghiên cứu này đã xóa tan những ngộ nhận về việc "cha mẹ đồng tính không khác cha mẹ thường". Kết quả của nó tương đồng với nghiên cứu của các chuyên gia nghiên cứu chính sách gia đình, và không có gì đáng ngạc nhiên khi nghiên cứu này bị tấn công quyết liệt các nhà hoạt động ủng hộ đồng tính[127]

Mark Regnerus tin rằng còn quá sớm đưa ra các kết luận sâu rộng về ảnh hưởng đối với con cái của các cặp đồng tính, và hiện không có bằng chứng thuyết phục rằng con cái của cặp đồng tính sẽ không khác biệt so với những đứa trẻ có đủ cha mẹ. Trước khi có nhiều bằng chứng hơn, Nhà nước nên thận trọng giữ lại hôn nhân trong phạm vi truyền thống (1 nam và 1 nữ), Regnerus tin rằng đó là điều tốt nhất dành cho trẻ em[128]

Đại học Texas (nơi Mark Regnerus làm việc) đã đưa ra tuyên bố: "Nghiên cứu này của Mark Regnerus là của riêng ông, không phản ánh quan điểm của Đại học Texas hay Hiệp hội Xã hội học Mỹ", đồng thời các kết quả nghiên cứu của Regnerus "đã được trích dẫn trong các nỗ lực không phù hợp nhằm hạn chế các quyền dân sự của các đối tác LBGTQ và gia đình của họ"[129]. Hiệp hội xã hội học Hoa Kỳ (ASA) thì cho rằng vẫn chưa thể bàn luận về các tác động của kết quả việc nuôi dạy của cha mẹ đồng tính lên con cái dựa trên nghiên cứu này.[130][131]. Tuy nhiên, 18 nhà khoa học đã ký tên chung vào bài viết ủng hộ nghiên cứu của Mark Regnerus. Những người này cho rằng nghiên cứu này có giá trị dựa trên những điều sau[132]:

  • Phần lớn các nghiên cứu trước đó đều dựa vào các mẫu nhỏ, không đại diện cho trẻ em trong các gia đình đồng tính. Ngược lại, Regnerus dựa trên một mẫu lớn, ngẫu nhiên, và đại diện của hơn 200 trẻ em nuôi dưỡng bởi cha mẹ có mối quan hệ đồng tính, so sánh chúng với một mẫu ngẫu nhiên của hơn 2.000 trẻ em lớn lên trong gia đình dị tính, để đạt được kết luận của mình. Giáo sư xã hội học Paul Amato, chủ tịch phân viện gia đình của Hiệp hội Xã hội học Mỹ đã viết rằng nghiên cứu Regnerus là "(nghiên cứu) tốt hơn hầu hết các nghiên cứu trước đó trong việc phát hiện sự khác biệt giữa các nhóm đó (nhóm gia đình khác biệt) trong dân số"
  • Những người đã lên tiếng phê bình Regnerus đã không công khai thừa nhận những hạn chế về phương pháp nghiên cứu trước đây về cha mẹ đồng tính.
  • Ngay cả Judith Stacey, một người nổi bật trong việc phê bình nghiên cứu của Regnerus, trong các bài viết khác cũng thừa nhận rằng các nghiên cứu cho thấy “Các mối quan hệ (đồng tính) có thể được chứng minh là kém bền vững” hơn hôn nhân dị tính
  • Những phát hiện liên quan đến sự bất ổn (trong các gia đình đồng tính) của Regnerus phù hợp với các nghiên cứu gần đây của các quốc gia như Anh, Hà Lan, và Thụy Điển dựa trên các mẫu đại diện lớn, ngẫu nhiên, tiêu biểu cho các cặp đồng tính, các nghiên cứu ấy cũng phát hiện ra sự tương đồng lớn về những kiểu bất ổn xuất hiện trong số các cặp đôi đồng giới.
  • Sự bất ổn này cũng có thể coi là một "kết quả của sự kỳ thị xã hội và tách biệt" mà các cặp vợ chồng đồng tính nam và đồng tính nữ phải đối mặt trong suốt thời gian dài từ khi trẻ đến tuổi trưởng thành. Cũng có thể giải thích những phát hiện Regnerus như là bằng chứng cho sự cần thiết phải hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, để hỗ trợ cho sự ổn định xã hội của các mối quan hệ như vậy. Nghiên cứu của Mark có thể mở ra nhiều nghiên cứu khác lớn và kỹ lưỡng hơn về chủ đề gây nhiều tranh cãi này.

Một đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi 1 cặp đồng tính chắc chắn sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề hơn. Ví dụ: nếu 1 cặp đồng tính nam nhận con gái nuôi hoặc cặp đồng tính nữ nhận con trai nuôi, đứa trẻ sẽ phải lớn lên mà thiếu vắng sự hướng dẫn giới tính từ người có cùng giới tính với nó, nhất là trong gia đoạn dậy thì, từ đó làm tăng nguy cơ về sự lệch lạc hành vi giới tính. Sự dễ chia tay hoặc quan hệ ngoài luồng, vốn phổ biến của các cặp đồng tính, cũng làm tăng nguy cơ chấn thương tâm lý ở đứa trẻ. Tệ hơn, đứa trẻ có thể phải đối mặt với sự kỳ thị, trêu chọc hoặc cô lập từ bạn bè cùng trang lứa, từ đó hình thành tâm lý bất mãn hoặc nổi loạn. Nhà tâm lý Enrique Rojas cho biết: Theo các nghiên cứu từ Hoa Kỳ, Canada, và New Zealand, 70-80% số đứa trẻ được nuôi bởi người đồng tính sẽ phát triển những khuynh hướng đồng tính tương tự.[133]

Mặt khác, trong cuốn sách "Lớn lên trong một gia đình đồng tính nữ: Tác động với sự phát triển trẻ em", 2 tiến sĩ Fiona TaskerSusan Golombok, quan sát thấy rằng 25% những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng tính cũng đã tham gia vào một mối quan hệ đồng tính, so với xấp xỉ 0% ở những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ bình thường[134]

Tiến sĩ xã hội học Trayce Hansen cho biết: "Nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội, mặc dù không dứt khoát, cho thấy rằng trẻ em nuôi bởi các cặp đồng tính có nhiều khả năng tham gia vào các hành vi đồng tính hơn so với các trẻ em khác. Các nghiên cứu cho đến nay cho thấy khoảng 8% đến 21% con nuôi của các cặp đồng tính cuối cùng cũng sẽ trở thành đồng tính. Để so sánh, tạm cho khoảng 2% dân số nói chung là đồng tính. Do đó, nếu các tỷ lệ này được xác minh kĩ, con nuôi của các cặp đồng tính có khả năng phát triển thành đồng tính cao hơn 4 đến 10 lần so với những đứa trẻ khác."[135]

Phân tích tổng hợp của Stacy và Biblarz (năm 2001) cho thấy rằng: các bà mẹ nuôi là đồng tính nữ có ảnh hưởng lớn, khiến con trai nuôi của họ trở nên nữ tính trong khi con gái nuôi thì lại trở nên nam tính. Họ báo cáo: "...các cô gái vị thành niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng tính sẽ có tỷ lệ cao hơn về tình dục bừa bãi... nói cách khác, trẻ em (đặc biệt là trẻ em gái) được nuôi bởi nữ đồng tính có xu hướng đả phá các quan niệm giới tính truyền thống, trong khi trẻ em được nuôi bởi các bà mẹ thông thường sẽ có biểu hiện phù hợp với giới tính của mình". Một nghiên cứu năm 1996 bởi một nhà xã hội học Úc cho thấy: những đứa trẻ của các cặp vợ chồng bình thường là giỏi nhất, trong khi con nuôi của các cặp vợ chồng đồng tính lại học hành kém nhất, điều này đúng tại 9 trên 13 trường học được khảo sát.[136]

Một nghiên cứu lớn tiến hành trên 3.826 cặp sinh đôi cùng giới (7.652 cá nhân) ở Thuỵ Điển đã cho thấy, những yếu tố thuộc về bẩm sinh như yếu tố di truyền và môi trường xung quanh sự hình thành và phát triển của bào thai (môi trường tử cung sớm) trước khi đứa trẻ ra đời (trong đó bao gồm quá trình sinh học như tiếp xúc hormone khác nhau trong bụng mẹ) chiếm chủ yếu trong việc hình thành thiên hướng tình dục đồng giới. Trong khi đó, các tác nhân như môi trường gia đình, xã hội, giáo dục con cái không ảnh hưởng hoặc hoặc ảnh hưởng không đáng kể tới sự hình thành thiên hướng tình dục đồng tính. Nghiên cứu này đưa ra các số liệu: yếu tố gen di truyền có ảnh hưởng khoảng 35% ở nam và 18% ở nữ, yếu tố môi trường phát triển thai nhi trong bụng mẹ (môi trường không chia sẻ) chiếm tỷ lệ chủ yếu tới 64% ở cả nam và nữ. Trong khi đó, yếu tố môi trường gia đình, xã hội, giáo dục (môi trường chia sẻ) chỉ giải thích 16% trong sự hình thành xu hướng tình dục đồng tính nữ và không có ảnh hưởng (phương sai ảnh hưởng 0%) tới sự hình thành xu hướng tình dục đồng tính nam.[137][138].

Hội đồng nghiên cứu gia đình cho rằng[139]:

Lập luận rằng "trẻ em cần một người mẹ và một người cha" là trung tâm bảo vệ hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ.

Các tổ chức ủng hộ giá trị gia đình (như Hội đồng Nghiên cứu Gia đình) khẳng định "nghiên cứu khoa học xã hội cho thấy rằng trẻ em làm tốt nhất khi được nuôi bởi người mẹ sinh học của riêng mình và cha của những người cam kết với nhau trong một cuộc hôn nhân lâu dài" Tuyên bố này là đúng sự thật, và dựa trên một bộ sưu tập lớn và mạnh mẽ của các nghiên cứu. Những người ủng hộ người đồng tính phản bác "Các nghiên cứu về trẻ em nuôi dưỡng bởi cha mẹ đồng tính cho thấy rằng không có sự khác biệt (hoặc có sự khác biệt nhưng không bất lợi) so với con cái nuôi dưỡng bởi cha mẹ dị tính". Tuy vậy, các nghiên cứu như vậy thường dựa trên những mẫu đại diện quá nhỏ, và thường xuyên được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu công khai ủng hộ đồng tính và có một tư tưởng sai lệch về vấn đề đang được nghiên cứu...

Trong thực tế, một bài báo xuất bản bởi tiến sĩ Loren Marks, (Đại học bang Louisiana) đã phân tích 59 nghiên cứu trước đây về cha mẹ đồng tính của Hiệp hội Tâm lý Mỹ (APA). Marks đã bóc trần kết quả sai lệch của APA rằng "con nuôi của cha mẹ đồng tính không bị thiệt thòi hơn so với con cái của các bậc cha mẹ khác giới." Marks cũng chỉ ra rằng chỉ có bốn trong số 59 nghiên cứu được trích dẫn bởi APA thậm chí không đạt tiêu chuẩn của APA về bằng chứng thống kê.

Bế tắc này đã bị phá vỡ bởi những công việc mà Mark Regnerus đã thực hiện. Không giống như các nghiên cứu trước đây thực hiện trên duy nhất trên một cấu trúc gia đình, Regnerus đã so sánh cụ thể với trẻ em lớn lên bởi cha mẹ đồng tính. Ông dựa trên mẫu dân số đại diện là đủ lớn để lập luận một cách khoa học và thống kê các kết luận hợp lệ. Đối với những lý do này, "cấu trúc mới về gia đình học" của ông (NFSS) xứng đáng được coi là "tiêu chuẩn vàng" trong lĩnh vực này... Regnerus, mặt khác, đã khảo sát những người trẻ từ 18 đến 39 về kinh nghiệm sống của họ trong gia đình. Trong khi các báo cáo này không phải là hoàn toàn khách quan, chúng vẫn đáng tin cậy hơn là cha mẹ tự báo cáo, và cho phép đánh giá các tác động lâu dài.

Tất cả những phát hiện trong nghiên cứu này rất quan trọng, đó là điều cái mạnh nhất - hầu như không thể chối cãi. So với trẻ em nuôi dưỡng bởi cha mẹ khác giới, con của cha mẹ đồng tính (LM và GF):

  • Có trình độ học vấn thấp hơn.
  • Có nhiều khả năng bị trầm cảm hơn.
  • Bị bắt giam thường xuyên hơn

Đối với con cái của các bà mẹ đồng tính nữ:

  • Phải nhận trợ cấp xã hội nhiều gấp 4 lần
  • Tỷ lệ thất nghiệp cao gấp 3 lần
  • Tỷ lệ có hành vi đồng tính cao gấp 4 lần
  • Bị buộc quan hệ tình dục trái với ý muốn cao gấp 4 lần
  • Sử dụng cần sa, hút thuốc lá thường xuyên hơn
  • Tỷ lệ phạm tội cao hơn

Tiến sĩ Glenn T. Stanton, giám đốc Tổ chức Family Formation Studies, lập luận[140]:

Trẻ em lớn lên trong gia đình đồng tính có chịu bất lợi hơn so với trẻ em trong gia đình khác giới? Câu trả lời đơn giản là "có", nhưng câu hỏi chính xác hơn là "thiệt thòi về với những điều gì?"

Có rất nhiều nghiên cứu xã hội, y tế và tâm lý vững chắc cho thấy những đứa trẻ lớn lên mà không có cha/mẹ sẽ phải đối mặt với những bất lợi đáng kể trong tất cả các mặt: sức khỏe thể chất và tinh thần, trình độ giáo dục, hạnh phúc, sự tự tin và phát triển sự đồng cảm, cũng như nghèo đói, lạm dụng chất gây nghiện, bạo lực gia đìnhlạm dụng tình dục và tránh không kết hôn.

"Chúng ta nên chối bỏ quan điểm cho rằng "người mẹ cũng có thể làm người cha tốt, cũng như chối bỏ quan niệm phổ biến của các nhà nữ quyền cực đoan rằng "các ông bố cũng có thể làm người mẹ tốt"... Hai giới là khác nhau về bản chất, và đều là cần thiết - cả về văn hóa và sinh học - cho sự phát triển tối ưu của một con người"[141]

Các nhóm ủng hộ đồng tính thường nhanh chóng giải thích rằng nhiều tổ chức y tế chuyên nghiệp tuyên bố rằng trẻ em trong gia đình đồng tính cũng phát triển tốt như trẻ em trong gia đình khác giới. The American Academy of Pediatrics (AAP), tổ chức y tế hàng đầu đã có một tuyên bố như vậy, và đó hầu hết các tổ chức khác theo sau, chỉ đơn giản là lặp lại. Báo cáo của họ bỏ bê một điểm quan trọng của so sánh. Tuyên bố của AAP hoàn toàn vô nghĩa trong việc cung cấp bất kỳ loại thông tin quyết định nào về cách các gia đình đồng tính là có ích hay có hại với trẻ em.

Đó là hành vi phi đạo đức khi đem trẻ em phục vụ cho một thử nghiệm xã hội chưa được kiểm chứng hậu quả. Không có nền văn hóa nào ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, đã từng sản sinh ra một thế hệ trẻ em lớn lên trong gia đình đồng tính. Đây là việc biến trẻ em thành vật thử nghiệm để hoàn thành ham muốn của người lớn. Một xã hội khôn ngoan và nhân đạo luôn luôn đi kèm với sự trợ giúp trẻ em mồ côi, và không bao giờ cố ý muốn trẻ phải chịu đựng hoàn cảnh như vậy. Nhưng công nhận gia đình đồng tính sẽ gây ra chính xác điều đó, chỉ vì một số nhỏ người lớn mong muốn như vậy

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hôn_nhân_đồng_giới http://derstandard.at/1381370702708/Mehrheit-will-... http://www.wienerzeitung.at/nachrichten/oesterreic... http://www.smh.com.au/federal-politics/political-n... http://www.smh.com.au/nsw/domestic-violence-a-sile... http://www.theage.com.au/federal-politics/politica... http://www.aph.gov.au/DocumentStore.ashx?id=ca0b07... http://www.acl.org.au/2013/05/the-harm-to-children... http://www.naturalmarriage.org.au/news-posts/over-... http://www.psychology.org.au/Assets/Files/APS-Subm... http://www.psychology.org.au/Assets/Files/LGBT-Fam...